Sơ lược về lịch sử ngành ung thư (phần 1)

Khoa học nghiên cứu về ung thư, gọi là oncology, là công việc của rất nhiều bác sĩ và nhà khoa học nghiên cứu xung quanh các vấn đề về giải phẫu, sinh lý học, hóa học, dịch tễ học, và những lĩnh vực liên quan khác về ung thư hiện nay. Sự tiến bộ của công nghệ cũng như sự hiểu biết ngày càng tăng về ung thư làm cho nó trở thành một trong những lĩnh vực phát triển nhanh nhất của y học hiện đại.

Lịch sử ban đầu của ung thư

Định nghĩa ung thư
Ung thư bắt nguồn từ các tế bào trong một phần của cơ thể phát triển ngoài tầm kiểm soát. Có nhiều loại ung thư, nhưng tất cả chúng đều bắt đầu vì sự phát triển ko kiểm soát được của các tế bào bất thường. Để hiểu biết nhiều hơn về sự tạo thành và phát triển của ung thư như thế nào, hãy xem tài liệu sau đây của chúng tôi: ung thư là gì?

Mô tả xưa nhất về ung thư
Loài người và những động vật khác đã bị ung thư trong suốt toàn bộ thời gian của quá trình lịch sử. Vì vậy không có gì ngạc nhiên khi ngay từ buổi bình minh, loài người đã viết về ung thư. Một số bằng chứng sớm nhất của ung thư được tìm thấy trong các bộ xương hóa thạch, các xác ướp ở Ai Cập cổ, và trong các bản viết tay cổ đại. Những khối tăng sinh gợi ý ung thư xương gọi là osteosarcoma được tìm thấy ở các xác ướp. Sự phá hủy xương sọ do ung thư đầu và cổ cũng được tìm thấy.
Sự mô tả cổ xưa nhất của chúng ta về ung thư (mặc dù từ ung thư lúc đó vẫn chưa được sử dụng) được khám phá ở Ai Cập và thời gian là vào những năm 3000 trước công nguyên. Nó được gọi là Văn bản giấy cói Edwin Smith (Edwin Smith Papyrus) và là một bản sao một phần của một cuốn sách giáo khoa cổ của người Ai Cập về phẫu thuật chấn thương. Nó mô tả 8 trường hợp u hay loét của vú mà được cắt bởi nhiệt nhờ một công cụ được gọi là máy khoan lửa (fire drill). Người viết nói về bệnh này rằng “bệnh này không thể chữa trị”.

Nguồn gốc của từ Ung thư

Nguồn gốc của từ “ung thư” được tin rằng là từ bác sĩ Hy Lạp cổ Hippocrates (460-370 trước Công nguyên), người được xem là cha đẻ của y học. Hippocrates đã sử dụng các thuật ngữ carcinos và carcinoma để mô tả sự tạo thành những khối u không có dạng loét và có dạng loét. Ở Hy Lạp, những từ này để chỉ một con cua, rất thích hợp để áp dụng cho bệnh này vì sự lan rộng ra xung quanh giống hình ngón tay từ ung thư, gợi ý đến hình dạng con cua. Celsus (28 trước Công nguyên – 50 sau Công nguyên), bác sĩ La Mã sau này đã dịch thuật ngữ Hy Lạp trên thành cancer, trong tiếng Latin có nghĩa là con cua. Galen (130 – 200 sau Công nguyên), một bác sĩ người Hy Lạp đã sử dụng từ oncos (trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là sự sưng tấy) để mô tả những khối u. Mặc dù thuật ngữ do sự giống con cua của Hippocrates và Celsus vẫn được dùng để mô tả các khối u ác tính, thuật ngữ của Galen (oncos) hiện nay được sử dụng như một phần của tên các các bác sĩ chuyên khoa ung thư – oncologists

Hình 1: Hippocrates (460 – 370 trước Công nguyên)
Hình 1: Hippocrates (460 – 370 trước Công nguyên)

Ung thư trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ 16 tới 18

Trong thời kỳ Phục hưng, bắt đầu từ thế kỷ thứ 15, các nhà khoa học đã có nhiều tiến triển lớn hơn trong vốn hiểu biết về cơ thể người. Những nhà bác học như Galileo và Newton bắt đầu sử dụng các phương pháp khoa học mà sau này được dùng để nghiên cứu bệnh tật. Khám nghiệm tử thi, được tiến hành bởi Harvey (1628) đưa tới hiểu biết về tuần hoàn máu qua tim và cơ thể mà cho tới thời điểm đó vẫn được xem là một bí ẩn.
Năm 1761, Giovanni Margagni ở Padua (một thành phố đông bắc nước Ý và là thủ phủ của tỉnh Padua, vùng Veneto) là người đầu tiên làm công việc mà hiện nay đã trở thành thường quy – ông ấy đã tiến hành giải phẫu những tử thi để tìm hiểu bệnh lý của bệnh nhân cũng như những quá trình bệnh học xảy ra sau khi chết. Điều này đã tạo cơ sở cho khoa học nghiên cứu về ung thư.
Phẫu thuật viên nổi tiếng người Scotland John Hunter (1728-1793) đã cho rằng một số ung thư có thể chữa khỏi được bằng phẫu thuật và mô tả cách để bác sĩ đưa ra quyết định những ung thư nào có thể phẫu thuật. Nếu khối u đã xâm lấn vào những mô xung quanh và “có thể di chuyển được (moveble)”, ông nói rằng “nó không thích hợp để cắt bỏ”.
Một thế kỷ sau, những tiến bộ của kỹ thuật gây mê đã cho phép phẫu thuật phát triển mạnh và những phẫu thuật ung thư kinh điển như căt bỏ vú triệt căn đã được hoàn thiện.

Hình 2: Bác sĩ John Hunter (1728 – 1973)
Hình 2: Bác sĩ John Hunter (1728 – 1973)

Ung thư trong thế kỷ 19

Thế kỷ 19 chứng kiến sự ra đời của ngành khoa học về ung thư với việc sử dụng kính hiển vi hiện đại trong nghiên cứu mô bệnh. Rudolf Virchow, thường được xem là người sáng lập ra ngành bệnh học tế bào, đã cung cấp những cơ sở khoa học cho những nghiên cứu bệnh học hiện đại về ung thư. Cũng như Morgagni đã kết nối những khám phá bằng mắt trần trong giải phẫu tử thi với quá trình lâm sàng của bệnh, Virchow nghiên cứu mối tương quan giữa bệnh học hiển vi với lâm sàng của bệnh.

Hình 3: Rudolf Virchow (1821 – 1902)
Hình 3: Rudolf Virchow (1821 – 1902)

Nguồn:

http://www.cancer.org/cancer/cancerbasics/thehistoryofcancer/the-history-of-cancer-what-is-cancer

http://www.cancer.org/cancer/cancerbasics/thehistoryofcancer/the-history-of-cancer-sixteenth-to-eighteenth-centuries

http://www.cancer.org/cancer/cancerbasics/thehistoryofcancer/the-history-of-cancer-nineteenth-century

Về Trần Xuân Dũng

Xem thêm

Những điều bạn cần biết trước liệu trình xạ trị vùng đầu – cổ

Bạn đang được bác sĩ lên kế hoạch để tiếp nhận xạ trị, phương pháp điều trị bệnh ung thư sử dụng các loại tia bức xạ. Những hướng dẫn sau đây sẽ giúp bạn tham gia tích cực vào quá trình điều trị của mình.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *