Những nội dung chính
Theo ước tính của Hiệp hội quốc tế phòng chống bệnh ung thư thì mỗi năm trên thế giới có khoảng 14,1 triệu người mắc bệnh ung thư mới và hơn một nửa trong số này có 8 triệu người là ở các nước kinh tế phát triển trong đó có Việt Nam.
Trong khi y học ngày nay đã không ngừng thành công trong phát hiện các phương pháp chẩn đoán và điều trị các bệnh thì Ung thư vẫn luôn là một chủ đề đáng sợ, một thách thức to lớn đối với ngành y.
Khoảng 200 tỷ đô la Mỹ mỗi năm được đầu tư cho nghiên cứu ung thư và tỷ lệ sống của những bệnh nhân ung thư tăng lên rõ rệt trong những năm vừa qua.
Ung thư là bệnh của các tế bào ác tính sinh ra trong cơ thể, các tế bào này phát triển mạnh mẽ, không ngừng phân chia và xâm lấn tổ chức lành của cơ thể.
Nhiều phương tiện sàng lọc và điều trị đã cứu sống hàng trăm nghìn người mắc ung bướu mỗi năm, nhưng y học hiện đại vẫn phải khiếp sợ trước một vài căn bệnh, đó là nhóm những bệnh ung thư nguy hiểm nhất mọi thời đại.
Hãy cùng điểm danh lại 10 căn bệnh ác tính có mức độ nguy hiểm nhất hiện nay, theo Viện ung thư quốc qua Hoa Kỳ.
1.Ung thư tụy (Pancreatic cancer)
Tỷ lệ sống trên 5 năm: 7,2%
Tụy có kích thước nhỏ nằm sau phúc mạc ổ bụng, nó tiết ra các loại enzym nhằm tiêu hóa thức ăn hằng ngày và đồng thời sản xuất hormon giúp điều hòa đường huyết cơ thể.
Nếu gia đình bạn có người bị ung thư tụy thì bạn sẽ được xếp vào đối tượng có nguy cơ cao của căn bệnh này. Ngoài ra, một số nguy cơ khác như: Tiểu đường, bệnh dạ dày, xơ gan,…
Ung thư tụy đứng số 1 trong danh sách này bởi khả năng phát hiện sớm cực kỳ khó. Bệnh nhân thường đến viện khi bệnh đã xâm lấn và di căn. Các phương pháp điều trị mặc dù có được cải thiện rất nhiều nhưng vẫn là một thách thức lớn nhằm tăng tỷ lệ sống sót cho bệnh nhân ung thư tụy hiện nay.
2.U trung biểu mô (Mesothelioma)
Tỷ lệ sống trên 5 năm: 9,2%
Trong tất cả các cơ quan trong cơ thể đều được bao xung quanh bởi lớp trung biểu mô. Nếu các tế bào lớp trung biểu mô này trở nên ác tính, bệnh sẽ biểu hiện ở chính cơ quan mà nó bao quanh. Có thể gặp đau ngực, khó thở, đau bụng hoặc bụng căng chướng,… tùy theo vị trí tế bào ung thư.
Trong 80% các trường hợp ung thư trung biểu mô có tiếp xúc với chất asbestos, theo Viện nghiên cứu Australia. Do đó, những đối tượng nguy cơ cao là thợ sửa ống nước, công nhân, người xây dựng công trình.
3.Ung thư gan và đường mật trong gan (Liver and bile duct cancar)
Tỷ lệ sống trên 5 năm: 17,2%
Các dấu hiệu sớm của bệnh ung thư gan không điển hình, thường nhầm lẫn với các bệnh khác đường tiêu hóa, có thể là sút cân, chán ăn, đau thượng vị, buồn nôn nhiều, gan to, vàng da, vàng mắt, nước tiểu có màu tối….Do đó, tỷ lệ ung thư gan phát hiện giai đoạn sớm rất thấp.
Nguyên nhân chính dẫn đến bệnh ung thư gan là từ virus viêm gan B, ngoài ra rượu cũng là thủ phạm hàng đầu gây ra căn bệnh này. Cần sàng lọc cho các đối tượng nguy cơ cao bằng siêu âm gan và xét nghiệm Marker ung thư AFP định kỳ 3-6 tháng.
4.Ung thư phế quản phổi (Lung cancer)
Tỷ lệ sống trên 5 năm: 17,4%
Ung thư phế quản là căn bệnh ung thư gây tử vong hàng đầu ở Hoa Kỳ. Các nghiên cứu chỉ ra khói thuốc và hút thuốc lá là những nguyên nhân chính gây ra căn bệnh này. Bệnh phần lớn gặp ở những người từ 55 đến 65 tuổi.
Ung thư phổi chia thành 2 loại chính: ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (chiếm đa số) và ung thư phổi tế bào nhỏ (di căn nhanh hơn).
Các phương pháp điều trị bao gồm phẫu thuật, hóa chất hoặc xạ trị bổ trợ. Tuy nhiên, đối với ung thư tế bào nhỏ, do tính chất ác tính cao và di căn nhanh nên tỷ lệ sống của bệnh nhân này rất thấp.
5.Ung thư túi mật (Gallblader cancer)
Tỷ lệ sống trên 5 năm: 17,9%
Ung thư túi mật là ung thư bắt đầu trong túi mật. Túi mật là một cơ quan nhỏ hình quả lê ở phía bên phải của bụng, ngay dưới gan. Túi mật chứa dịch mật, dịch tiêu hóa được sản xuất bởi gan.
Ung thư túi mật là khó chẩn đoán vì nó thường không gây ra dấu hiệu hay triệu chứng. Ngoài ra, tính chất tương đối ẩn của túi mật làm cho bệnh ung thư túi mật tăng trưởng mà không bị phát hiện.
Các triệu chứng có thể: Đau âm ỉ hoặc dữ dội phần trên bên phải vùng bụng, vàng da, chán ăn, sút cân, ngứa,…
Các yếu tố nguy cơ bao gồm Viêm túi mật mãn tính, yếu tố gen, túi mật hóa xứ, …
6. Ung thư thực quản ( Esophagus cancer)
Tỷ lệ sống trên 5 năm: 17,9%
Ung thư thực quản thường bắt đầu từ các tế bào lót bên trong thực quản. Ung thư thực quản có thể xảy ra bất cứ nơi nào dọc theo thực quản, nhưng ở những người ở Hoa Kỳ, nó xảy ra thường xuyên nhất ở phần dưới của thực quản.
Có 2 loại chính: Ung thư tế bào tuyến và ung thư tế bào vảy. Ung thư tế bào tuyến xảy ra thường xuyên nhất ở phần dưới của thực quản. Ung thư tế bào vảy thường xảy ra ở giữa thực quản. Ung thư tế bào vảy là bệnh ung thư thực quản phổ biến nhất trên toàn thế giới.
Rượu, thuốc lá, trào ngược dịch vị, bệnh Barret thực quản hay tổn thương tiền ung thư tại thực quản là những yếu tố nguy cơ của căn bệnh này.
7. Ung thư tử cung (Uterus cancer)
Tỷ lệ sống trên 5 năm: 27,2%
Ung thư tử cung thuộc ung thư đường sinh dục của phụ nữ. Bệnh phổ biến gặp ở lứa tuổi sau mãn kinh.
Triệu chứng thường gặp là chảy máu âm đạo sau một thời gian tắt kinh. Do đó, mọi người cần đề phòng các dấu hiệu này để phát hiện sớm căn bệnh. Ngoài ra, có thể đau tức vùng bụng dưới, đi tiểu ra máu, gầy sút cân,…
Có thể áp dụng điều trị bằng phương pháp phẫu thuật, hóa chất hoặc tia xạ tùy thuộc vào giai đoạn bệnh. Tuy nhiên, hàng đầu vẫn là mổ cắt triệt căn khối u và nạo vét hạch.
8. Ung thư dạ dày (Stomach cancer)
Tỷ lệ sống trên 5 năm: 29,3%
Bệnh ung thư dạ dày có thể phát triển từ các lớp trong dạ dày của người bệnh. Triệu chứng ban đầu của bệnh ung thư dạ dày thường không rõ ràng. Một số triệu chứng sớm của bệnh có thể nhận ra là sụt cân không rõ nguyên nhân, khó tiêu, ợ chua, mất ngon miệng, đặc biệt là với món thịt, thường xuyên buồn nôn, cơ thể mệt mỏi…
Nguyên nhân gây ra bệnh được chứng minh là do nhiễm khuẩn Helicobacter pylori, ngoài ra, sinh hoạt không điều độ, ăn không đúng bữa hoặc suy nghĩ quá nhiều cũng có nguy cơ cao mắc bệnh này. Các phương pháp điều trị phổ biến cho bệnh này là phẫu thuật, hóa trị, xạ trị và điều trị kết hợp.
Tuy nhiên do chẩn đoán ở giai đoạn muộn nên tỷ lệ tử vong căn bệnh này cao.
9. U não ác tính (Brain tumor)
Tỷ lệ sống trên 5 năm: 30,3%
U ác tính ở não thường nặng và đe doạ đến tính mạng. Chúng phát triển rất nhanh và xâm chiếm mô lành chung quanh. Rất hiếm khi tế bào ác tính trong khối ung thư não tách ra và di chuyển đến các nơi khác của não, đến tuỷ sống, hoặc những phần khác của cơ thể (di căn).
Các triệu chứng có thể gặp: Đau đầu, co giật, yếu liệt tay chân, nói khó, mắt lác, mất thăng bằng,…
Việc điều trị đối với những khối u não thứ phát phụ thuộc vào vị trí ung thư bắt đầu và sự lan rộng của bệnh. Phẫu thuật là phương pháp điều trị hàng đầu. Tuy nhiên vì tổ chức ung thư xâm lấn mô não lành nên rất khó lấy hết được và nguy cơ tái phát rất cao.
10. Ung thư máu (Leukemia)
Tỷ lệ sống trên 5 năm: 30,3%
Ung thư máu là do lượng bạch cầu sản sinh quá nhiều và quá nhanh trong một thời gian ngắn. Bạch cầu vốn được sinh ra để bảo vệ cơ thể khỏi các tác nhân từ bên ngoài. Tuy nhiên khi lượng bạch cầu sản sinh quá nhiều sẽ dẫn đến tình trạng bạch cầu ăn hồng cầu. Hồng cầu sẽ bị phá hủy dần và người bệnh có dấu hiệu thiếu máu. Nếu không được chữa trị kịp thời có thể dẫn đến tử vong trong thời gian ngắn.
Đây là căn bệnh ung thư ác tính không hình thành nên khối u.
Việc điều trị bệnh ung thư này gặp nhiều khó khăn. Bệnh này thường gặp ở những người bị nhiễm chất phóng xạ, hoặc ở trong môi trường quá ô nhiễm.