Lợi ích của WBRT trong điều trị ung thư phổi tế bào nhỏ di căn não

Di căn não xuất hiện trong khoảng 25% người bệnh ung thư. Xấp xỉ 50% trong số đó bắt nguồn nguyên phát từ phổi. Xạ trị toàn não (Whole Brain Radiation Therapy – WBRT) là lựa chọn tiêu chuẩn hiện nay cho các trường hợp di căn não từ 5 ổ trở lên. Khi đó, WBRT với tổng liều 30 Gy trong 10 phân liều là phác đồ được lựa chọn thông dụng nhất [1].

Trong một nghiên cứu (NC) hồi cứu được công bố trên Journal of Geriatric Oncology tháng 8/2019, ở bệnh nhân cao tuổi, di căn não từ ung thư phổi tế bào nhỏ (UTPTBN), xạ trị toàn não (Whole Brain Radiation Therapy – WBRT) chỉ mang lại một lợi ích khiêm tốn về thời gian sống thêm cho những trường hợp không đủ điều kiện hóa trị, và không có lợi ích ở nhóm bệnh nhân nhận được điều trị hóa chất trước đó [2].

Nhóm bệnh nhân cao tuổi thường nằm trong tiêu chuẩn loại trừ của các thử nghiệm lâm sàng lớn, do đó, các dữ liệu trong y văn về lợi ích của các phương pháp điều trị cho nhóm đối tượng này chưa phong phú và còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, kỳ vọng sống và khả năng dung nạp với điều trị bị giới hạn theo độ tuổi, cùng với nguy cơ xuất hiện các tác dụng không mong muốn của phương pháp điều trị, tất cả đặt ra một dấu hỏi lớn dành cho bác sĩ lâm sàng khi lựa chọn giải pháp phù hợp cho người bệnh.

Trong nghiên cứu này, tác giả Paul Renz (Pittsburgh, Hoa Kỳ) cùng cộng sự phân tích trên 1615 bệnh nhân, được hồi cứu từ cơ sở dữ liệu ghi nhận ung thư quốc gia với tiêu chí: Tuồi >= 75 (tuổi trung vị: 79), chẩn đoán xác định UTPTBN di căn não. Đối tượng nghiên cứu được phân nhóm theo thể thức điều trị:

  • Hóa trị + WBRT: 576 bệnh nhân
  • Hóa trị đơn thuần: 238 bệnh nhân
  • WBRT đơn thuần: 360 bệnh nhân
  • Chăm sóc triệu chứng đơn thuần: 441 bệnh nhân

Nghiên cứu lựa chọn “Ung thư phổi tế bào nhỏ”, bệnh lý có đặc tính nhạy cảm với điều trị bước đầu, bao gồm cả điều trị toàn thân (Hóa trị…) và tại chỗ (Xạ trị).

Tại thời điểm phân tích, 1530/1615 trường hợp đã tử vong, kết quả trung vị thời gian sống thêm toàn bộ (OS) tính chung là 2,9 tháng, trong đó:

  • Hóa trị + WBRT: 5,6 tháng
  • Hóa trị đơn thuần: 6,4 tháng
  • WBRT đơn thuần:1,9 tháng
  • Chăm sóc triệu chứng đơn thuần: 1,2 tháng

Kết quả NC cho thấy bổ sung WBRT không mang lại sự khác biệt về OS cho những trường hợp đã nhận được điều trị toàn thân bằng hóa chất. Một giả thuyết đã được chấp nhận rộng rãi cho rằng hàng rào máu – não cản trở các loại thuốc hóa chất khuếch tán vào hệ thần kinh trung ương (TKTW), tuy nhiên, các thuốc tan trong dầu (lipophilic) lại có khả năng vượt qua và đạt được ngưỡng nồng độ điều trị tại hệ TKTW [3]. Thêm vào đó, tại tổn thương di căn não, hàng rào này có thể bị phá vỡ, tạo điều kiện cho các thuốc hóa chất đi vào nhu mô não dễ dàng hơn.

Bên cạnh đó, sau WBRT, người bệnh đối diện với tình trạng suy giảm các chức năng thần kinh (Trí nhớ, hoạt động trí tuệ, cảm xúc, ngôn ngữ…) do tác dụng muộn của tia xạ, đặc biệt với nhóm bệnh nhân cao tuổi và những trường hợp có OS trên 12 tháng.

Từ các kết quả thu được, nhóm tác giả đề nghị rằng hóa trị đơn thuần là một lựa chọn phù hợp cho những bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ cao tuổi, di căn não chưa biểu hiện triệu chứng. Thêm vào đó, với vai trò ngày càng được khẳng định của liệu pháp xạ phẫu (SRS – Stereotactic RadioSurgery) trong điều trị ung thư phổi tế bào nhỏ di căn não, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy một phân nhóm bệnh nhân được tuyển chọn kỹ lưỡng có thể hưởng lợi từ SRS. Cụ thể hơn, đó là các trường hợp bệnh nhân cao tuổi, có toàn trạng tốt, di căn não chưa triệu chứng và tình trạng bệnh toàn thân được kiểm soát tốt với các liệu pháp toàn thân (hóa trị, điều trị đích hay điều trị miễn dịch).

Tài liệu tham khảo:

  1. Brain Metastases from Primary Tumors, Volume 3 Epidemiology, Biology, and Therapy of Melanoma and Other Cancers 2016, Pages 197-211.
  2. Reinz, Paul et al. Survival outcomes after WBRT for brain metastases in older adult with newly diagnosed metastatic small cell carcinoma: A national cancer database (NCDB) analysis. Journal of Geriatric Oncology, Volume 10, Issue 4, 560-566.
  3. Nolan C, Deangelis LM. Overview of metastatic disease of the central nervous system. Handb Clin Neurol 2018;149:3–23. https://doi.org/10.1016/B978-0-12811161-1.00001-3

BSNT. Trần Trung Bách

Về Trần Trung Bách

Bác sĩ nội trú. Bộ môn Ung thư - Đại học Y Hà Nội - Khoa xạ trị tổng hợp, Bệnh viện K Tân Triều

Xem thêm

Phối hợp đa mô thức và phẫu thuật TRIANGLE cắt khối tá tụy tiếp cận động mạch theo hai đường trong điều trị bệnh lý ung thư đầu tụy tiến triển

Ung thư tụy là một trong những bệnh lý ung thư ác tính nhất của …

One comment

  1. 1 Nghiên cứu có kết quả bất ngờ

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *