Xạ trị triệt căn ung thư vú di căn một vài vị trí (Oligometastatic breast cancer): Kết quả 1 thử nghiệm pha II tiến cứu [1]
Thử nghiệm lâm sàng pha II, tiến cứu, đa trung tâm nhằm đánh giá vai trò của xạ trị trong chỉ định điều trị triệt căn ung thư vú di căn một vài vị trí (Oligometastatic breast cancer).
Phương pháp NC:
Tiêu chuẩn lựa chọn BN tham gia nghiên cứu: Ung thư vú di căn <= 5 vị trí, được đánh giá giai đoạn bằng FDG-PET/CT, không có di căn não, khối u nguyên phát được kiểm soát.
Các kỹ thuật xạ trị được áp dụng bao gồm xạ trị định vị SBRT 30-45Gy/3 phân liều hoặc điều biến liều IMRT với tổng liều 60Gy/25 phân liều. Các thể tích xạ trị được xác định bằng FDG-PET/CT.
Tiêu chí chính: Thời gian sống thêm không tiến triển (PFS)
Tiêu chí phụ: Tỷ lệ kiểm soát tại chỗ, sống thêm toàn bộ (OS) và độc tính.
Kết quả:
Tổng số 54 BN với 92 tổn thương di căn tham gia NC.
44 BN được điều trị bằng SBRT và 10 BN được điều trị bằng IMRT.
48 BN (89%) được nhận thêm điều trị hoá chất.
Số tổn thương tại các vị trí di căn: Xương (60), hạch bạch huyết (23), phổi (4), gan (5).
Sau thời gian theo dõi trung vị 30 tháng (6-55 tháng), tỷ lệ PFS tại 1 năm và 2 năm lần lượt là 75% và 53%.
Tỷ lệ kiểm soát tại chỗ (LC) và OS sau 2 năm tương ứng: 97% và 95% ủng hộ cho giả thuyết điều trị với mục tiêu triệt căn sẽ mang lại lợi ích cho ung thư vú di căn một vài vị trí. Kết quả này có thể so sánh với 1 báo cáo của Milano và cộng sự, khi các tác giả này sử dụng SBRT trong xạ trị triệt căn các trường hợp ung thư vú di căn một vài vị trí, ghi nhận tỷ lệ PFS sau 2 năm là 44% [2].
Cần lưu ý rằng, vị trí di căn xương chiếm đa số trong thử nghiệm này (vốn có tiên lượng tốt hơn các vị trí di căn khác) sẽ ảnh hưởng đáng kể đến kết quả sống thêm ghi nhận được. Trong NC của Scorsetti và cộng sự, với hơn 70% BN di căn gan/phổi, kết quả PFS tại 2 năm chỉ đạt được 27%, mặc dù, tỷ lệ kiểm soát tại chỗ vẫn đạt 90% [3].
Về độc tính, các tác giả không ghi nhận trường hợp nào độc tính 3, độc tính độ 2 chỉ xuất hiện tại 2 trường hợp cho thấy xạ trị có thể được BN dung nạp dễ dàng.
Kết luận
Kết quả NC cho thấy xạ trị có thể giúp cải thiện thời gian sống thêm không tiến triển cho một số BN chọn lọc ung thư vú di căn một vài vị trí với những độc tính không đáng lo ngại. Trong lúc chờ đợi sự kiểm chứng từ các thử nghiệm ngẫy nhiên, xạ trị triệt căn với SBRT/IMRT vẫn nên được xem là 1 lựa chọn đáng chú ý cho một số BN chọn lọc.
- Trovo M., Furlan C., Polesel J. và cộng sự. (2017). Radical radiation therapy for oligometastatic breast cancer: Results of a prospective phase II trial. Radiother Oncol J Eur Soc Ther Radiol Oncol.
- Milano M.T., Zhang H., Metcalfe S.K. và cộng sự. (2009). Oligometastatic breast cancer treated with curative-intent stereotactic body radiation therapy. Breast Cancer Res Treat, 115(3), 601–608.
- Scorsetti M., Franceschini D., Rose F.D. và cộng sự. (2016). Stereotactic body radiation therapy: A promising chance for oligometastatic breast cancer. The Breast, 26, 11–17.
Biên dịch: BSNT. Trần Trung Bách
Bản toàn văn: www.ungthuhoc.vn/yeucautailieu