Bệnh nhân đang trong thời gian điều trị hóa chất hoặc ghép tế bào gốc tạo máu (Hematopoietic stem-cell transplantation) có nguy cơ nhiễm trùng cao, đặc biệt trong giai đoạn giảm bạch cầu hạt (nhân tố chính chống lại nhiễm trùng đặc biệt là từ vi khuẩn và nấm). Nguy cơ nhiễm trùng tăng lên theo mức độ và thời gian giảm bạch cầu hạt, cao nhất trong thời gian đầu sau mỗi chu kỳ hóa trị, đặc biệt ở nhóm BN Leukemia sau giai đoạn điều trị cảm ứng chuẩn bị ghép tế bào gốc tạo máu.
Sốt là dấu hiệu chỉ điểm quan trọng và có thể là triệu chứng duy nhất của tình trạng nhiễm trùng, dù vậy, các nhà lâm sàng cũng cần lưu ý đến các trường hợp không sốt hoặc thậm chí hạ thân nhiệt có thể xảy ra ở những bệnh nhân giảm bạch cầu hạt nặng. Phòng ngừa và kiểm soát thích hợp sốt giảm bạch cầu hạt (Febrile Neutropenia – FN) là 1 việc làm rất quan trọng vì tỷ lệ biến chứng của FN từ 25-30% (hạ huyết áp, suy thận cấp, suy tim, suy hô hấp) và tỷ lệ tử vong khoảng 11%. Tình trạng nhiễm trùng toàn thân nặng (severe sepsis) hoặc sốc nhiễm khuẩn có thể dẫn đến tử vong trong 50 % trường hợp.
Các nguyên nhân khác làm tăng nguy cơ nhiễm trùng như tổn thương hàng rào bảo vệ da và niêm mạc (viêm niêm mạc hoặc sử dụng catheter tĩnh mạch); tình trạng dinh dưỡng, bệnh lý rối loạn chuyển hóa kết hợp (tiểu đường, ure máu cao), nhiễm virus làm rối loạn chức năng miễn dịch, bệnh lý do phản ứng cơ thể chủ – mảnh ghép (graft-versus-host disease GVHD), rối loạn hệ vi khuẩn chí.
Chiến lược dự phòng có thể giúp giảm nguy cơ nhiễm trùng ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Tuy nhiên cần cân nhắc lợi ích và nguy cơ của điều trị dự phòng trước khi quyết định, dựa trên các yếu tố: Tác dụng phụ của thuốc, tình trạng kháng thuốc, chi phí, những dữ kiện thực tiễn về dịch tễ học vi sinh vật (sự đa dạng về số lượng và chủng loại vi sinh vật). Guideline trước đã khuyến cáo dự phòng kháng sinh và kháng nấm cho BN có nguy cơ cao. Bên cạnh đó, những bằng chứng về mối liên quan giữa nguy cơ sốt hạ bạch cầu và tỷ lệ tử vong do nhiễm trùng chưa đủ mạnh mẽ ở nhóm BN có nguy cơ thấp để có thể đưa là khuyến cáo một chiến lược dự phòng thường quy.
Hướng dẫn cập nhật của ASCO và IDSA về dự phòng thuốc kháng vi sinh vật ở bệnh nhân ung thư có suy giảm miễn dịch
Câu hỏi: Điều trị dự phòng kháng vi sinh vật cho bệnh nhân ung thư bị suy giảm miễn dịch như thế nào là thích hợp?
Dự phòng thuốc kháng vi sinh vật:
Khuyến cáo 1.1: Nguy cơ sốt do hạ bạch cầu hạt (FN-Febrile neutropenia) cần được xem xét 1 cách hệ thống (tham khảo chuyên gia truyền nhiễm nếu cần thiết), bao gồm các yếu tố về người bệnh, bệnh ung thư nền và phương pháp điều trị (Bảng 2). [Mức độ khuyến cáo: Mạnh]
Khuyến cáo 1.2: Dự phòng với kháng sinh nhóm Fluoroquinolon được khuyến cáo cho bệnh nhân có nguy cơ cao FN hoặc giảm bạch cầu hạt nặng và kéo dài. Kháng vi sinh vật dự phòng không được khuyến cáo chỉ định thường quy cho bệnh nhân có các khối u đặc. [Mức độ khuyến cáo: Trung bình]
Theo Uptodate, BN nguy cơ cao giảm bạch cầu hạt nên được chỉ định điều trị dự phòng Levofloxacin 500 mg x 1 lần/ngày đường uống hoặc Ciprofloxacin 500 mg x 2 lần/ngày đường uống. Ciprofloxacin nhạy cảm hơn với Pseudomonas aeruginosa còn Levofloxacin nhạy cảm hơn với các vi khuẩn Gram dương (Ví dụ: BN tăng nguy cơ viêm niêm mạc miệng do Streptococcus viridans). Thời gian điều trị dự phòng tối ưu chưa được nghiên cứu đầy đủ. Nhiều bác sỹ lâm sàng lựa chọn thời gian bắt đầu điều trị dự phòng là ngày thứ 1 hoặc ngay sau ngày cuối cùng của chu kì hóa chất. Thời gian kết thúc điều trị dự phòng được xác định khi tình trạng giảm bạch cầu hạt được giải quyết hoặc bệnh nhân xuất hiện sốt trong thời gian giảm bạch cầu hạt (sẽ được điều trị phác đồ kháng sinh theo kinh nghiệm)
Khuyến cáo 2.1: Triazole đường uống hoặc Parenteral Echinocandin được khuyến cáo cho các bệnh nhân nguy cơ cao giảm bạch cầu hạt nặng và kéo dài (AML/MDS hoặc HSCT). Dự phòng kháng nấm không được khuyến cáo chỉ định thường quy cho bệnh nhân có khối u đặc. [Mức độ khuyến cáo: Trung bình]
Khuyến cáo 2.2: Điều trị dự phòng, ví dụ TMP-SMX (Trimethoprim- Sulfamethoxazole) được khuyến cáo cho bệnh nhân đang điều trị hóa chất với phác đồ có nguy cơ viêm phổi do Pneumocystis jirovecii > 3.5 % . [Mức độ khuyến cáo: Mạnh]
TMP/SMX được dùng với liều 15 mg/kg/ngày, 1-2 lần/ngày. Cần lưu ý các tác dụng phụ trên máu, tủy xương và hạ Kali máu của thuốc.
Khuyến cáo 3.1: Bệnh nhân HSCT hoặc Leukemia đang trong giai đoạn điều trị cảm ứng có phản ứng huyết thanh dương tính với HSV nên được dự phòng bằng thuốc ức chế Nucleoside như Acyclovir. [Mức độ khuyến cáo: Mạnh]
Xem thêm phụ lục 2.
Khuyến cáo 3.2: Điều trị thuốc ức chế Nucleoside (Entecavir hoặc Tenofovir) được khuyến cáo cho bệnh nhân có nguy cơ cao tái hoạt HBV. [Mức độ khuyến cáo: Trung bình]
Xem thêm phụ lục 3.
Khuyến cáo 3.3: Tiêm phòng hàng năm với vắc xin cúm bất hoạt được khuyến cáo cho tất cả các bệnh nhân điều trị ung thư bằng hoá chất, gia đình, người gần gũi và chăm sóc trực tiếp). [Mức độ khuyến cáo: Trung bình]
Khuyến cáo 3.4: Các chuyên gia ủng hộ chiến lược dự phòng bằng vắc xin khác (trong danh mục khuyến cáo của IDSA dành cho nhóm đối tượng suy giảm miễn dịch) cho các bệnh nhân ung thư bị suy giảm miễn dịch. [Mức độ khuyến cáo: Trung bình]
Xem thêm phụ lục 4.
Các khuyến cáo phụ:
Khuyến cáo 4.1: Tất cả nhân viên y tế cần tuân thủ vệ sinh bàn tay và đường hô hấp nhằm giảm nguy cơ lây truyền trực tiếp hoặc gián tiếp tác nhân gây bệnh. [Mức độ khuyến cáo: Mạnh]
Khuyến cáo 4.2: Bệnh nhân ung thư đang điều trị ngoại trú bị giảm bạch cầu hạt cần tránh tiếp xúc lâu dài với môi trường có nồng độ cao bào tử nấm men (Ví dụ: môi trường đang xây dựng/phá vỡ, môi trường đất khi làm vườn hoặc cải tạo nhà cửa). [Mức độ khuyến cáo: Mạnh]
Bạn đọc có thể tải bản đầy đủ tại: Tủ sách Ung Thư Học Thư mục GUIDELINES / ASCO
BSNT. Nguyễn T. Phương Anh
BSNT. Trần Trung Bách